Lăng Bà Vú Nha Trang - Người Giúp Vua Gia Long Thoát Nạn
Sự tồn tại của lăng Bà Vú ở Ninh Hòa không những góp phần làm phong phú di sản văn hóa ở địa phương mà còn là một trong những di tích quan trọng để tìm hiểu về mỹ thuật đầu triều Nguyễn. Bởi vậy, lăng Bà Vú đã được Nhà nước quyết định xếp hạng là di tích nghệ thuật kiến trúc cấp Quốc gia.
Thông tin liên hệ
Địa chỉ:
Khóm 3 Ninh Hiệp - T.Xã Ninh Hòa
Điện thoại:
Đang cập nhật
Email:
info@nhatrangtoday.vn
Lăng Bà Vú Nha Trang ở đâu?
Lăng Bà Vú còn gọi là Lăng Nhũ Mẫu nằm ở khóm 3, tổ 9, phường Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Lăng Bà Vú là một công trình kiến trúc chứa đựng nhiều giá trị về lịch sử, văn hóa tiêu biểu và đặc sắc, trong đó yếu tố mỹ thuật chiếm vai trò chủ đạo. Một số yếu tố nghệ thuật cung đình và dân gian đầu thế kỷ 19 đã được thể hiện ở đây khá rõ nét.
Sự tích hình thành Lăng Bà Vú
Truyền thuyết của nhân dân trong vùng kể lại rằng, thuở trước, khi chúa Nguyễn Ánh đang lúc gian nan và khốn khó, một lần bị quân Tây Sơn đánh bại và truy đuổi gắt gao, quân lính theo hầu không còn mấy người, lương thực cạn kiệt, những tưởng rằng phải bỏ xác lại nơi này, may sao, có một người phụ nữ nhà khá giả ở thôn Mỹ Hiệp (Ninh Hòa) thương tình cho ăn, lại chỉ đường cho trốn chạy thoát được vào Nam.
Nhiều năm sau, khi đã chiến thắng được triều Tây Sơn và lên làm vua, nhớ lại công ơn của người đã cứu giúp năm nào, nhà vua bèn sai người về báo đáp thì người xưa đã không còn nữa. Ðể ghi nhớ công ơn của bà, nhà vua xuống chiếu phong tặng cho bà là Nhũ mẫu, đồng thời truyền thợ giỏi đang xây dựng cung điện ở Huế và thợ khéo ở Khánh Hòa đến thôn Mỹ Hiệp để xây lăng cho bà.
Lăng Bà Vú là nơi chôn cất người phụ nữ đã có công giúp chúa Nguyễn Phúc Ánh (sau này là vua Gia Long) qua cơn hoạn nạn lúc giao tranh với nhà Tây Sơn. Công trình do vua chỉ đạo xây dựng theo kiến trúc lăng tẩm để đền ơn đáp nghĩa nên dân gian gọi là lăng.
Kiến trúc xây dựng độc đáo của Lăng Bà Vú
Khảo tả di tích
Lăng Bà Vú nằm trên một khu đất rộng 1.766 m2 (lăng mộ có diện tích 291m2 ). Phía trước lăng là khoảng đất trống rộng dùng trồng hoa, cây cảnh, xa nhất về phía trước là hồ nước hình chữ nhật (diện tích 262m2), theo quan niệm xưa, di tích có vị trí đẹp thì phía trước phải có hồ nước là nơi tụ thủy (tức là tụ phúc) làm yếu tố minh đường và phía sau lăng Bà Vú là một hòn giả sơn đắp bằng đất làm yếu tố hậu chẩm (thế dựa lưng), tuy nhiên vì nhiều nguyên nhân hiện nay hòn giả sơn đã không còn.
Lăng quay về phía Đông, hơi lệch sang hướng Bắc, có kết cấu gồm 3 lớp tường thành:
– La Thành (Lớp tường thành thứ 1): Bao bọc bên ngoài hình chữ nhật (kích thước 9,65m x 13,46m), có cửa vào rộng 3,62m, chiều cao trung bình 2,0m. Trên đỉnh ở hai bên cổng đắp 2 con lân nằm với chất liệu vôi vữa và tô màu rất sống động, sắc sảo. Đỉnh thành có đắp mũ, trát gờ chỉ. Mặt ngoài trát vữa tô trau, mặt trong trang trí các cảnh tích. Trên hai góc tường phía trước nguyên đắp câu đối nhưng nay đã mờ gần hết chữ, dưới hai con lân đắp nổi hai chữ Phúc.
– Bửu Thành (Lớp tường thành thứ 2): Có dạng hình chữ nhật (kích thước 9,43m x 12,3m), cao 1,385m, cửa mở về phía Đông (giống La Thành), rộng 2,97m. Đỉnh tường cũng đắp mũ tròn, gờ chỉ. Trên cổng ở hai bên cũng đắp 2 con lân trong tư thế đặt một chân lên quả cầu. Toàn bộ mặt trong và ngoài của Bửu Thành trang trí ô hộc, đắp hoa văn và cảnh tích bằng vữa tô màu.
– Uynh Thành (Lớp tường thành thứ 3): Là vòng thành trong cùng bao bọc lấy phần mộ. Uynh Thành có dạng hình ô van, đỉnh tường thành nhấp nhô kiểu yên ngựa (đầu và đuôi cao, giữa thấp). Thành được tạo dáng giống như hai con lân quấn đuôi vào nhau, hai đầu nằm trên cổng. Các chùm tóc (bờm) xoắn lông, chùm đuôi lân đắp nối liền với đầu, trùm lên mũ tường Uynh Thành; thân tường chia ô hộc và đắp hoa văn cảnh tích.
Vật liệu xây dựng
Lăng mộ được xây bằng vữa truyền thống theo kỹ thuật thời Nguyễn, người dân địa phương quen gọi là “bê tông cổ” hay vữa tam hợp. Các nhà nghiên cứu cho rằng, hợp chất này được chế tạo bằng cách trộn các vật liệu gồm: cát thô (cỡ hạt tới 10mm), vôi hàu giã, bột giấy, mật mía, nhựa cây bời lời (hoặc lá bồ đề giã nhỏ lấy nhớt).
Các vật liệu được hòa trộn với nhau theo một tỉ lệ nhất định và kết cấu công trình có bền vững hay không phụ thuộc vào tỉ lệ pha trộn vật liệu của người nghệ nhân. Các tường thành hoặc khối tạo hình theo từng lớp dày 20-30cm, vữa trát ngoài hoặc các họa tiết trang trí dày 12mm. Màu sắc các chi tiết được sử dụng theo màu truyền thống pháp lam Huế.
Hoa Văn trang trí
Các họa tiết trang trí ô hộc và các văn tự phần lớn được đắp trên các tường thành: La Thành, Bửu Thành, Uynh Thành….Hệ thống ô hộc dàn trải trong không gian của từng vòng thành bao bọc khu Lăng mộ.
Đề tài thể hiện phỏng theo những cảnh tích cổ như: Nhị thập tứ hiếu (Lão Lai Tử, Quách Cự, Lục Tích, Giang Cách, Hoàng Hương, Dương Hương, Tăng Tử, Mẫn Tử Khiên…), thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh, Sơn thủy tùng định, Bát tiên, Tùng lộc, Dương liễu, Song phụng triều nghi,…Các cảnh tích này thể hiện lối sống thanh tao, trong sáng của người quân tử; đạo nghĩa làm người…nhằm thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”.
Các ô hộc có kích thước lớn được trang trí bằng những hồi văn chữ Vạn hay những hoa văn dây leo được cách điệu. Đặc biệt khu vực Hương án, các họa tiết trang trí được thể hiện khá chi tiết. Đây được xem như ngai thờ, cũng là điểm chính của khu Lăng mộ. Ngoài các họa tiết hoa văn trang trí còn có một bức văn bia bằng chữ Hán Nôm có nội dung ca ngợi đức hạnh Bà Vú.
Nghệ thuật trang trí ở Lăng Bà Vú đã đạt đến sự hoàn chỉnh, từ tổng thể đến họa tiết hoa văn. Hệ thống đường nét và mảng khối thể hiện sự thống nhất, bố cục chặt chẽ trong một không gian hẹp, có mảng chính, mảng phụ, có điểm nghỉ mắt, tạo nên tổng thể hài hòa, đăng đối.
Các nghệ nhân đã khéo léo sử dụng hình thể, đường nét theo hướng nội trong từng chi tiết ô hộc, cũng như việc sắp đặt những con lân chầu ở La Thành, Bửu Thành hoặc lưỡng long ở Uynh Thành… Điều đó tạo nên bố cục hiệu quả thẩm mỹ, đem lại cảm giác ấm cúng cho khu Lăng mộ.
Đậm đà văn hoá dân gian
Lăng Bà Vú được xây dựng trong 2 năm, đến năm 1804 thì hoàn thành. Lăng được xây dựng trên gò đất cao phía cánh đồng, có không gian rộng, uy nghiêm, các yếu tố phong thủy đã được kết hợp và xử lý một cách hài hòa với không gian xung quanh.
Tổng thể lăng được xây dựng theo hình chữ quốc, mặt xoay hướng đông nam có hồ sen rộng hình chữ nhật bằng vôi cát, lăng có 3 lớp thành xây bằng vôi, cát, gạch. Thành ngoài dài 20m, rộng 14m, cao 1,5m tạo thành khuôn viên bao bọc, có cửa nhỏ ra vào, 2 bên có hai con sư tử đắp bằng vôi, cát tô màu hồng rất đẹp.
Lăng Bà Vú tại địa điểm du lịch Nha Trang có những nét chạm trổ tinh xảo của những người thợ giỏi nổi tiếng mà nhà vua điều đến cùng những họa tiết trang trí đắp nổi trên những bức tường với nhiều tiêu đề khác biệt theo các tích xưa như: Nhị thập tứ hiếu, Trúc Lâm thất hiền, Ngư Tiều Canh Mục, Bát tiên, Chiêu Quân Cống Hồ…
Bên cạnh đó, nhà vua cũng cho khắc tạc những biểu tượng cho người quân tử theo quan niệm của Nho giáo như: tùng, cúc, trúc, mai, hay những biểu tượng quen thuộc của đạo Lão như: thư, kiếm, phong, vân, tùng, đình, nai, hạc…
Tiếp theo có án phong, có thành nội bao bọc khu mộ dài 12m, rộng 0,9m, cao 1,2m hình vòm cung. Hai bên cửa có 2 con kỳ lân thể hiện khá tinh xảo. Ngôi mộ nằm chính giữa có bia đá khắc chữ Hán ghi lại sự tích công đức của Bà Vú.
Điều đáng lưu ý ở công trình là những hình trang trí đắp nổi trên những bức tường của lăng có từng chủ đề riêng biệt theo các tích xưa như: Nhị thập tứ hiếu, Trúc Lâm thất hiền, Ngư Tiều Canh Mục, Bát tiên, Chiêu Quân Cống Hồ... cùng với một số biểu tượng của người quân tử theo quan niệm của đạo Nho như: tùng, cúc, trúc, mai.
Hoặc là những biểu tượng quen thuộc của đạo Lão như: thư, kiếm, phong, vân, tùng, đình, nai, hạc... Chất liệu chính để tạo nên những tác phẩm nghệ thuật bích họa này chỉ là vôi, cát cùng với màu sắc trộn với nhau và được đưa lên tường, song ở mỗi bức tranh các nghệ nhân xưa đã thể hiện một cách trau chuốt đến từng chi tiết cũng như toàn bộ bố cục của mỗi khung hình. Lăng Bà Vú được xem như một di tích kiến trúc nghệ thuật của Việt Nam.
Với những di tích kiến trúc nghệ thuật độc đáo ấy, năm 1999, lăng Bà Vú được Bộ văn hóa thể thao và du lịch xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia.
Nhiều năm bị lãng quên, nay Lăng Bà Vú được nhắc đến với danh hiệu “Di tích Lịch sử” của Tỉnh, đã được trùng tu mới mẻ, sạch đẹp sang trọng. Con đường vào Lăng thẳng tắp được bê tông hóa như tấm thảm trải dài để đón khách du lịch vào thăm Lăng như một biểu tượng, một tương lai tươi sáng, một nét son tô đẹp cho nền lịch sử văn hóa nước nhà, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
Rất nhiều du khách ham mê khám phá về kiến trúc lăng mộ thời kì phong kiến đều tìm đến nơi đây, chẳng thế mà Lăng Bà Vú Nha Trang còn được đưa vào văn thơ, nhà thơ Quách Tấn từng viết về lăng Bà Vú trong cuốn Xứ Trầm Hương: “Tuy không nguy nga tráng lệ bằng lăng vua, nhưng ở miền Nam Trung Việt không thấy ngôi mộ nào có thể sánh về quy mô cũng như về kiến trúc”.
Lăng Bà Vú sẽ là điểm đến hấp dẫn trong hành trình ghé thăm địa điểm du lịch Nha Trang mang lại cho du khách nhiều điều thật bổ ích, là điểm dừng chân lý tưởng trong hành trình tìm về nguồn cội.